Bác Ba Phi là một nhân vật trong văn học dân gian. Ông là nhân vật chính
trong những câu chuyện kể về cuộc sống sinh hoạt thường ngày nhưng được
cường điệu quá đáng (như rắn tát cá, chọi đá làm máy bay rơi, leo cây ớt té
gãy chân…) và được trình bày một cách tự nhiên khiến người nghe hoàn
toàn bất ngờ và bật cười. Ông là nhân vật cận đại nhất trong lịch sử kho tàng
truyện trạng (nói dóc) của văn học Việt Nam.
Nguyên mẫu cuộc đời
Nhân vật nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-
1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn cếu
kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích.
Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp, do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ
ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời,
ông trở thành một lao động chính trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban
ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông
thường tham gia tụ họp đờn ca, và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể
trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể
và cách kể truyện lôi cuốn người nghe của ông.
Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế – một địa chủ giàu có vùng Bảy Ghe,
ông được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm
công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông
cưới được vợ. Cũng do điều này mà Hương quản Tế rất yêu thương người
con rể này và đã cắt chia cho vợ chồng Ba Phi khá nhiều đất. Cộng với sự
cần cù sẵn có, ông đã ra sức khai khẩn phần đất được chia thành đồng ruộng
cò bay thẳng cánh.
Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng
ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn Tứ
Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi con
cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ Hải về
sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con trai – cháu
đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong những câu chuyện
của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi tiếng. Và cũng có
thành ngữ “Tệ như vợ (thằng) Đậu” được dùng để chỉ những người vụng về.
Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer.
Bà sinh được hai đứa con gái.
Bác Ba Phi qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1964 tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp
Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ
của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm tại ấp Đường
Ranh, xã Khánh Hải nằm ở một góc rừng U Minh Hạ.
Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được xây dựng thành tuyến du
lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.
Những nét đặc sắc văn học
Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những tiền nhân đi khai mở đất rừng U
Minh. Cả quãng đời, mà đặc biệt là thời tuổi trẻ của bác Ba Phi, là quá trình
khai phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm khắc
nghiệt. Với tihần khai phá, tính lạc quan yêu đời, thế giới quan của ông hiện
ra thật sinh động và đáng yêu.
Những câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe
trước hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba
Phi, đồng thời nó còn ẩn chứa tính hào hùng của lớp người đi mở đất, tính
cách đặc trưng Nam Bộ, lòng yêu thương thiên nhiên và con người.
Cho đến tận ngày ông qua đời, không có một văn bản nào chính thức có ghi
chép lại những câu chuyện do ông kể, kể cả người trong thân tộc ông. Những
câu chuyện kể của bác Ba Phi là những câu chuyện truyền miệng. Tuy nhiên,
nó cũng đầy đủ hình thức cấu trúc văn học: mở đề, thắt nút và kết thúc. Một
mặt, nó cũng hao hao một loại tiểu thuyết chương, hồi rút gọn, dù có đảo lộn
trật tự thế nào cũng giữ được ý nghĩa và tính xuyên suốt của những câu
chuyện kể độc lập.
Những câu chuyện của bác Ba Phi, do tính chất “truyền miệng”, vì vậy
thường bị “biên tập” hoặc “hiệu chỉnh” lại trong quá trình câu truyện “lưu
lạc”. Thêm vào đó, cũng có không ít những câu chuyện do người khác sáng
tác, nhưng vẫn lấy danh xưng bác Ba Phi.
Nguồn: Wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét