Chương 1: Nghe lời hát Tuyên Vương Khinh Sát giãi tình oan, Ðỗ Bá hiển linh
Từ
lúc vua Trụ mất nước Võ-vương lập lên nhà Châu, dân chúng sống trong cảnh
thái-bình thịnh trị.
Các
triều vua kế tiếp như Thành-vương, Khương-vương, đều nhờ lấy đức trị dân, lại
được các bậc trung thần như : Châu-công , Thiệu-công, Tất-công, SửĐật, hết lòng
phò tá, lên cơ-nghiệp vững-bền.
Qua
đến đời vua thứ tám là Di-vương, cơ-nghiệp nhà Châu bắt đầu suy-yếu.
Ðến
đời vua thứ chín là Lệ-vương lại càng nhu-nhược hơn. Trong nước nổi loạn,
nịnh-thần thí vua, toan tiếm ngôi may nhờ có Châu-công và Thiệu-công, đồng tâm
hiệp lực, lập Thái-tử Tịnh lên kế vị.
Thái-tử
Tịnh lên ngôi xưng hiệu là Tuyên-vương , trong thì lo sửa sang triều-chính
chiêu- đãi hiền-thần, ngoài thì lo vỗ an bá-tánh, vì thế các bậc hiền-tài lúc
bấy giờ như Phương-Chúc, Thiệu-Hổ, Doãn-kiết-phủ, Châu-Bá, Trọng-sơn-phù, đều
dốc lòng bảo giá . Tuyên-vương đem lại thái bình cho nhà Châu được mười chín
năm thì giặc Khương-nhung dấy-loạn, vua phải ngự-giá thân-chinh.
Thế
giặc quá mạnh, Tuyên-vương thua luôn may trận, quân-sĩ hao hụt rất nhiều, bèn
trở về Thái-nguyên kiểm- điểm dân số để mộ thêm binh lính.
Khi
đi ngang qua một khu phố nhỏ gần Kiểu-kinh có một bầy trẻ xúm nhau vỗ tay hát :
Thỏ
lên, ác lặn non mờ ,
Túi
cơ cung yểm bơ phò nước non.
Vua
nghe câu hát lấy làm tức giận, truyền quân vây bắt.
Bọn
trẻ cả sợ chạy tán loạn, chỉ bắt được có hai đứa.
Vua
quát hỏi :
–
Ai bày cho chúng bay hát như thế ?
Hai
đứa trẻ run lẩy bẩy, cúi đầu tâu :
–
Cách đây ba hôm, có một đứa nhỏ mặc áo đỏ, đến tại chợ nầy dạy chúng con hát.
Nhưng chẳng biết vì sao, cùng một lúc, cả trẻ con trong khu phố đều biết các
câu hát ấy.
Vua
lại hỏi :
–
Hiện bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu?
Hai
đứa bé đáp :
–
Chẳng biết nó đi đâu , từ ấy đến nay chúng con không còn gặp nó nữa.
Vua
Tuyên-vương cau mày, suy nghĩ rồi truyền đuổi hai đứa bé ấy đi. Lại khiến quan
Tư-thị loan-báo khắp khu-phố cấm không cho con nít hát như thế nữa. Nếu đứa trẻ
nào còn hát cha mẹ nó phải chịu tội. Kế đó vua ngự-giá về cung.
Sáng
hôm sau, lâm triều bá quan vào chầu đủ mặt, vua bèn thuật lại câu hát ấy, và
hỏi có ai đoán được hư thiệt không ?
Quan
Lễ-Bộ Triệu-hổ quỳ tâu :
–
Tâu Bệ-hạ, cây yểm là thứ cây dâu núi, dùng làm cung , còn cơ là loại cỏ dùng
đan giỏ đựng tên. Cứ theo câu hát ấy mà bàn thì chắc trong nước sẽ bị nạn binh-
đao !
Tuyên-vương
đưa mắt nhìn các quan cận-thần hỏi ý-kiến.
Quan
Thái-tế Trọng-sơn-phủ quỳ tâu :
–
Theo ý Ngu-thần thì cung tên biểu hiệu cho binh- đao, nay Bệ-hạ đang muốn kiếm
dân, bắt lính đánh dẹp rợ Khương, điềm ấy e ảnh hưởng không lành đến dự-tính
của Bệ-hạ.
Tuyên-vương
gật đầu hỏi lại :
–
Thế thì thằng con nít mặc áo đỏ là ai?
Thái-sư
Báđương-phụ tâu :
–
Chúng con nít mặc áo đỏ thuộc hỏa, còn sao Huỳnh-hoặc cũng thuộc hỏa. Ấy là ông
trời muốn răn vua, nên khiến sao Huỳnh-hoặc biến ra đứa trẻ đó .
Tuyên-vương
nghe nói cho là phải, bèn phán :
–
Vậy bây giờ trẫm tha tội cho Khương-nhung, rút quân ở Thái-nguyên về, truyền
đốt tất cả số cung tên lưu trữ trong kho, như thế có tránh được điềm họa kia
chăng ?
Dương-phụ
lại quỳ tâu :
–
Hạ-thần xem thiên văn thấy điềm dữ ứng tại cung vua, chớ không can chi đến bờ
cõi. Hơn nữa, luận theo câu hát “thỏ lên, ác lặn” có nghĩa là âm thạnh, dương
suy, hạ thần e rằng việc nước sẽ do tay đàn bà quấy rối.
Tuyên-vương
nói :
–
Trong cung có Khương-hậu là kẻ hiền- đức, cai quản tam-cung, lục-viện. Mỗi một
cung phi đều do tay Khương-hậu chọn lựa, làm sao có thể xảy ra tai họa ấy được
?
Dương-phụ
tâu :
–
Tâu Bệ-hạ, ý trong câu hát không phải là việc bây giờ, xin Bệ-hạ cứ thi nhân,
bố đức, may ra việc dữ trở nên lành , còn cung tên trong kho chẳng nên đốt làm
chị
Tuyên-vương
nghe xong, lòng rất nghi-hoặc, bèn bãi chầu lui vào hậu cung, đem các việc
thuật lại cho Khương-hậu nghẹ
Khương-hậu
tâu :
–
Tâu Bệ-hạ, điềm dữ vừa ứng, trong cung lại có việc lạ lùng, thần-thiếp định tâu
cùng Bệ-hạ.
Tuyên
vương ngơ-ngác hỏi :
–
Chẳng hay trong cung lại có việc gì chẳng lành sao?
Vừa
rồi trong cung có một phi-tần của Tiên-vương để lại, tuổi ngoài năm mươi, có
thai đã bốn mươi năm trời, đêm qua lại sanh ra một gái.
Tuyên-vương
giật mình hỏi :
–
Ðứa con gái ấy bây giờ ở đâu?
Khương-hậu
nói :
–
Thần-thiếp cho là quái-thai, nên đã sai người đem vứt xuống sông Thanh-thủy,
cách đây vài mươi dậm.
Vua
cho là chuyện lạ, bèn đòi người cung-phi già đó đến hỏi tự sự .
Người
cung-phi già được lệnh, đến quỳ móp xuống đất, tâu rằng :
–
Tiện tỳ được nghe nói vào đời Hạ-kiệt, tại Bao-thành có thần-nhân hóa ra hai con
rồng sa xuống giữa sân triều, nhả nước dãi ra rồi kêu vua Kiệt nói : “Ta là hai
vị Ðế-vương của Bao-thành đây ” . Vua Kiệt cả sợ, muốn giết hai con rồng ấy,
song quan Thái-sư bói quẻ và tâu rằng : Thần nhân hạ giáng, ắt có điềm lành ,
xin Bệ-hạ hãy lấy nước dãi mà để dành. Vì nước dãi là tinh-khí của rồng, để
dành trong cung ắt đặng hưởng phúc . Vua Kiệt nghe theo truyền đem mâm vàng
hứng lấy nước dãi, đựng vào một chiếc hộp son, cất kỹ trong khọ Vừa cất xong
thì trời nổi mưa, hai con rồng bay đi mất. Từ ấy đến nay đã hơn sáu trăm bốn
mươi bốn năm, qua nhà Hạ, đến nhà ân, rồi đến nhà Châu ta thêm nữa mà vẫn chưa
ai dám mở hộp ấy. Ðến đời Tiên-vương , chiếc hộp ấy có hào quang rực rỡ, quan
giữ kho trông thấy tâu lại với Tiên-vương. Tiên-vương truyền đem sổ bộ tra cứu,
mới hay trong hộp đó đựng nước dãi rồng, bèn truyền mở ra xem. Rủi thay
Tiên-vương sơ ý làm rơi chiếc hộp xuống đất, nước dãi đổ lai láng rồi hóa thành
một con giãi nhỏ chạy tung tăng khắp sân triều. Nội-thị theo đuổi bắt con giãi
kia chạy vào cung rồi biến mất. Lúc đó tiện-tỳ mới lên mười hai tuổi. Vì đạp
nhằm đầu con giãi ấy mà thọ thai. Tiên-vương lấy làm lạ, đem tiện tỳ giam vào
lãnh cung. Ðến nay hơn bốn mươi năm trời mới sanh ra một gái ! Nội-thị không
dám giấu, vào tâu với Hoàng-hậu. Hoàng-hậu cho là quái-thai nên đã đem vất
xuống sông, xin Bệ-hạ rộng lòng tha cho tiện-tỳ khỏi tội.
Tuyên-vương
nghe xong, lo lắng thở đài, phán :
–
Ấy là việc đời trước, có can chi đến ngươi mà phải sợ sệt.
Nói
xong, vội sai nội thị đến bờ sông Thanh-thủy xem đứa bé ấy thể nào.
Một
lát sau, nội thị trở về tâu :
–
Tâu Bệ-hạ, đứa bé ấy đã trôi đi đâu mất tích.
Nhà
vua an lòng, trở vào hậu cung an nghĩ.
Sáng
hôm sau vua cho vời quan Thái-sư Dương-phụ đến kể việc nước miếng rồng cho
Dương-phụ và bảo :
–
Nay đứa bé ấy đã chết rồi, khanh hãy chiếm một quẻ xem oan nghiệt đã dứt chưa?
Dương-phụ
vâng mạng, gieo quẻ rồi dâng lời đoán cho Tuyên-Vương xem.
Lời
đoán rằng :
–
Cười cười khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay ! Sợ thay ! Nước non
tang-tóc.
Vua
không hiểu ý, hỏi lại Dương-phủ tâu rằng :
–
Dê chỉ về Mùi, ngựa ứng về Ngọ. Cười cười, khóc khóc nói về chuyện vui buồn.
Quẻ nầy ứng qua năm Ngọ, năm Mùi sẽ có chuyện vui buồn đó. Theo dự đoán của hạ
thần, tuy yêu-quái ra khỏi cung nhưng chưa trừ đặng.
Tuyên-vương
nghe tâu, mặt buồn dàuđàu, hạ chiếu truyền rao khắp dân chúng, ai tìm ra đứa
con nít ấy, bất kỳ sống thác đều được thưởng ba trăm tấm lụa, ngược lại ai giấu
diếm mà nuôi, sẽ bị xử-tử toàn gia.
Vua
truyền giao việc nầy cho quan Thượng- đại-phu Ðỗ-bá xem xét.
Lại
ra lệnh cho quan Ðại-phu Tả-nho nghiêm cấm khắp nơi, từ thành-thị đến thôn quê
không ai được làm cung bằng gỗ yểm và giỏ tên bằng cỏ cợ Ai trái lệnh được
quyền bắt chém.
Nhânđân
nghe lệnh, nhất nhất tuân theo. Duy có các miền xa vắng, lệnh của nhà vua chưa
được ban bố, nên cách hai ngày sau có một người đàn bà xách mấy cái túi tên
bằng cỏ cơ, và một người đàn ông vác mấy cây cung bằng gỗ yểm đến chợ bán.
Quân
tuần trông thấy áp lại bắt, nhưng người đàn ông lanh chân chạy thoát.
Chúng
dẫn người đàn bà vào nạp cho quan Ðại-phu Tả-nhọ
Tả-nho
nghĩ thầm :
–
Hai vật nầy đúng theo lời hát của lũ trẻ rồi. Vả lại, quan Thái-sư bảo là có nữ
họa, thế thì người đàn-bà nầy là mối họa lớn của quốc-gia, ta phải vào triều
phục chỉ.
Nghĩ
như vậy, Tả-nho giấu việc người đàn ông bỏ trốn , chỉ dắt người đàn bà vào
triều tâu nạp .
Nhà
vua truyền đem tội nhơn xử-tử, và đem tất cả các túi tên ra chợ đốt đi để răn
dân chúng.
Trong
lúc đó, ngươi đàn ông kia hoảng vía chạy trối chết , không hiểu cớ gì quan quân
lại đón bắt vợ chồng mình. Mãi đến ngày hôm sau, anh ta mới biết lệnh cấm, và
nghe đồn người đàn bà bán giỏ tên bị xử tử, lòng nóng như đốt, anh ta than thầm
:
–
ôi ! vợ ta đã bị giết rồi, giờ đây ta biết nương tựa vào đâu ! đau đớn thay .
Than
rồi, anh ta khóc rống lên, nhưng sợ khóc lớn quan quân hay được, bèn tìm nơi
vắng vẻ để khóc cho thỏa lòng .
Anh
ta đi lần đến mé sông Thanh-thủy, đôi mắt đỏ ngoe , dòng châu lả chả , bỗng
thoáng thấy đàng xa có bầy chim kêu rả-rít, xúm nhau ngậm một chiếc chiếu cuốn
tròn , nổi trên sông, mà đem vào bờ.
Lấy
làm lạ, anh ta chạy đến giở chiếc chiếu ra xem, thì thấy trong đó gói một đứa
bé gái vừa mới lâm bồn 1.
Anh
ta nghĩ thầm :
–
Con ai đem bỏ như vầy. Ðã không chết mà lại có bầy chim cứu nạn, ắt là một
quí-nữ. Ta đem về nuôi để ngày sau nhờ cậy.
Nghĩ
như vậy bèn cỡi áo gói đứa bé ôm vào mình, rồi thẳng đường sang Bao-thành lánh
nạn.
Từ
khi giết người đàn-bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ, Tuyên-vương cho rằng điềm họa
trong nước đã diệt được, nên không còn lo ngại gì nữa. Tuy nhiên, cứ cách vài
năm nhà vua lập đàn tế-lễ nơi Thái-miếu 2 , ăn chay nằm đất để cầu phúc.
Năm
ấy vào năm thứ bốn mươi ba, vua ngủ nơi trai-cung 3 , trống canh hai vừa đổ,
xảy có một người con gái, dung nhan đẹp đẽ từ phía Tây xăm xăm đi lại.
Vua
cả giận nghĩ rằng :
–
Ðàn bà con gái sao dám đến chỗ chay cấm , bèn quát lên một tiếng hô nội thị đến
bắt.
Vua
gào rát cổ, mà vẫn không thấy một tên nội-thị nào.
Người
đàn bà kia cứ ungđung đi vào Thái-miếu, góp nhặt các bài-vị bó thành một bó,
rồi bước ra cười ba tiếng, khóc ba tiếng, đoạn chậm rãi tiến về hướng Ðông 4 .
Vua
bèn rượt theo, bỗng giật mình thức dậy mới biết là chiêm-bao, trong lòng kinh
hãi, đòi Thái sư Báđương-phụ đến hỏi.
Báđương-phụ
tâu rằng :
–
Lời đồngđao 5 cách đây ba năm Bệ-hạ đã quên rồi sao?
Hạ-thần
tiên đoán nhà Châu sẽ bị nữ-họa. Nay yêu-khí chưa dứt, mà người đàn bà ấy lại
khóc ba tiếng, cười ba tiếng, thì đúng theo quẻ hạ thần đã tiên đoán vậy.
Tuyên-vương
lo lắng hỏi :
–
Ngày trước trẫm đã giết người đàn bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ rồi, như thế chưa
trừ đặng câu đồngđao ấy hay sao?
Báđương-phụ
tâu.
–
Tâu Bệ-hạ, đạo trời mầu nhiệm lắm, đâu phải dễ gì giết một người đàn bà hèn mọn
kia mà có thể làm biến- đổi được thiên-cơ 6 .
Vua
nghe nói lòng buồn rã rượi, ngồi đứng không an, giây lâu sực nhớ đến việc ba
năm trước có sai Ðỗ-bá truy tầm đứa bé thả trôi sông, sao đến nay chưa nghe kết
quả , bèn đòi Ðỗ-bá vào hỏi.
Ðỗ-bá
quỳ tâu :
–
Tâu Bệ-hạ, hạ-thần hết sức tìm kiếm, nhưng chẳng thấy. Khắp trong dân gian cũng
không ai tìm được xác, chứng tỏ quái-thai kia đã bị chìm mất tích rồi. Vả lại
Bệ-hạ đã xử-tử người đàn bà bán cung, thì lời đồngđao đâu còn linh-ứng ? Nếu cứ
tra xét thì e động đến dân-tình .
Tuyên-vương
cả giận mắng :
–
Ðã không làm được việc, lại không phục-chỉ , rõ là một đứa khi quân.
Bèn
sai võ-sĩ dẫn Ðỗ-bá ra pháp-trường xử trãm.
Giữa
lúc đó, quan Hạ- đại-phu Tả-nho, vốn là bạn thân của Ðỗ-bá, thấy vội quỳ móp
trước sân triều can gián :
–
Tâu Bệ-hạ, đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, đời vua Thang nắng hạn đến bảy năm,
mà chẳng hề sanh biến loạn. Nay chỉ vì giết không được một đứa con nít mà Bệ-hạ
xử-tử một đại thần e các lân-bang chê cười, xin Bệ-hạ xét lại.
Tuyên-vương
mặt giận phừng phừng, nói :
–
Nếu vì tình bạn mà can gián, thì ngươi qua đã trọng bạn khinh vuạ
Tả-nho
tâu :
–
Vua phải bạn trái thì nên theo vuạ Bạn phải vua trái thì nên theo bạn . Tội
Ðỗ-bá không đáng gì, mà Bệ-hạ đem giết, thiên hạ sẽ cho Bệ-hạ là bất minh. Hạ
thần biết mà không can gián, thiên-hạ sẽ cho Hạ-thần là bất trung. Nếu Bệ-hạ
giết Ðỗ-bá, hạ thần xin cùng chết.
Tuyên-vương
nói :
–
Trẫm chém Ðỗ-bá như chém cỏ rác, ngươi chớ nhiều lời làm chị
Nói
xong, nạt võ-sĩ đem Ðỗ-bá ra chém.
Còn
Tả-nho về đến nhà cũng tự-vận mà thác.
Người
sau, cảm lòng trung nghĩa, lập miếu nơi Ðồ-lăng mà thời gọi là miếu
Tả-tướng-quân.
Con
trai Ðỗ-bá là Thấp-thúc trốn qua nước Tấn , lành đến chức Sĩ-sư, sau con cháu
đổi ra họ Phạm.
Khi
Tuyên-vương nghe tin Tả-nho tự vận, lòng hối-ngộ, ăn ngủ không yên, mà sanh
bệnh, bỏ cả việc triều chính.
Khương-hậu
thấy vậy cũng không dám phàn nàn.
Một
hôm, vào tiết mùa thu, Tuyên-vương muốn đi săn bắn để giải muộn bèn truyền
Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ sắm sửa xe giá lên đường. Hai bên tiền hô, hậu ủng
thẳng đến Ðông-giao.
Ðến
nơi, vua truyền hạ trại, và dặn dò quân-sĩ không được đạp phá mùa màng, làm
chấn động lê dân. Ðoạn truyền lịnh hễ ai bắt được nhiều thú rừng sẽ được trọng
thưởng.
Quân-sĩ
đua nhau bủa vây khắp chốn. Lòng vua rất đẹp .
Chẳng
bao lâu, mặt trời đã gác non Ðoài, vua truyền bãi cuộc săn bắn.
Quân
sĩ tuân lệnh bao nhiêu phi-cầm tầu thú đều buộc trói sẳn sàng hộ giá về cung.
Ði
chưa dược ba bốn dặm đường, nhà vua mặt mày bỗng xây xẩm , rồi trước mắt thoáng
thấy một cổ xe nhỏ từ đàng xa tiến đến.
Trên
xe có hai người, tay cầm cung tên, hô lớn :
–
Bệ-hạ vẫn được mạnh giỏi chứ .
Tuyên-vương
nhìn kỹ thấy hai người đó là Ðỗ-bá và Tả-nho, thất kinh gọi kẻ tả-hữu hỏi thì
chẳng ai thấy gì hết.
Chiếc
xe nhỏ kia cứ lởn vởn mãi trước mắt, vua cả giận hét :
–
Phản thần ! Dám đến đây phạm giá sao?
Nói
xong, rút bửu kiếm ra chém.
Bỗng
nghe có tiếng Ðỗ-bá và Tả-nho mắng lại.
–
Hôn quân, đã không biết sửa mình còn chém người vô tội !
Hôm
nay khí số hôn quân đã mãn , hãy lo mà đền mạng cho sớm .
Dứt
lời, trương cung nhằm ngay ngực nhà vua bắn tới.
Tuyên-vương
hét lên một tràng thất thanh rồi té xỉu xuống.
Các
quan hộ giá xúm lại đỡ dậy, lo thuốc men cứu chữa.
Nhà
vua ôm ngực rên la cho đến lúc về tới cung.
Ai nay đều sợ sệt, nhìn nhau không biết nguyên do nào xảy ra như vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét