Chương 2: Bao Quýnh chuộc tội dâng mỹ Nữ U Vương đốt lửa lừa chư hầu
Từ khi săn bắn ở
Ðông-giao về, Tuyên-vương lâm bệnh nặng , đêm nào chợp mắt cũng thấy Ðỗ-bá và
Tả-nho đến đòi mạng
Biết mình không
thể sống được lâu, bèn cho đòi Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ đến để thác cô .
Hai người nầy vào
quỳ dưới long-sàng hỏi thăm căn bịnh. .
Vua khiến nội-thị
đỡ dậy và nói :
– Trẫm nhờ sức
của hai khanh mới ở ngôi đặng bốn mươi sáu năm, chẳng ngờ hôm nay lâm bịnh
nặng, không thể sống được nữa, Thái-tử là Cung-niếc tuổi tuy đã lớn mà
tánh-tình ngu-muội, xin chư khanh hãy hết lòng phò tá kẻo hư cơ-nghiệp.
Hai người cúi đầu
lãnh mạng, bái tạ lui ra.
Vừa đến cửa cung
xảy gặp quan Thái-sử Báđương-phụ bước vào.
Thiệu-hổ hỏi :
– Có phải ngài
đến để thăm Bệ-hạ không ? Bịnh tình Bệ-hạ rất nguy kịch, khó mà sống đặng.
Doãn-kiết-phù nói
:
– Trước kia là
tiếng hát rao, nay lại đến hồi quỷ hiện, vận nước thật khó an toàn.
Báđương-phụ nói :
– Ðêm qua tôi có
xem thiên-văn, thấy yêu-tinh phục nơi sao Tử-vị Quốc gia còn gặp nhiều tai biến
nữa.
Thiệu-hổ nói :
– Tuy trời định
hơn người, song người cũng có thể thắng mạng trời. Các ông cứ nói theo thiên-
đạo mà bỏ nhân-lực sao ! Cả triều thần không đủ sức chống lại mọi tai biến ư ?
Ba người nhìn
nhau, mỗi người riêng một ý nghĩ, rồi ai về nhà nấy.
Ðêm hôm ấy
Tuyên-vương băng-hà.
Khương Thái-hậu
bèn ra ý chỉ triệu các vị lão-thần Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ xuất lãnh bá quan,
phò Thái-tử Cung-niếc vào làm lễ cử ai, rồi tức vị trước linh-cữu, xưng hiệu là
U-vương , lập con gái Thân-bá lên làm Hoàng-hậu, lập con trai là Nghi-cựu lên
làm Thái-tử, phong Thân-Bá làm Thân-hầu.
Sau khi
Tuyên-vương chết, bà Khương-hậu buồn rầu vô cùng, chẳng bao lâu cũng tạ thế.
Còn U-vương lại
là một ông vua bạo ngược, háo sắc. Mặc dù trong tang chế, ngày nào cũng ăn uống
rượu chè, đắm say vậtđục đến nỗi bỏ bê cả việc triều-chánh.
Thân-hầu ngày
ngày can gián không được, buồn giận lui về nước Thân tá túc.
Bấy giờ khí số
nhà Châu cũng đã sắp tàn, nên khiến các vị lão thần như Doãn-kiết-phủ,
Thiệu-hổ, đều lần lượt quy-thiên.
U Vương lại dùng
Quách-công, Tế-công, và con của Doãn-kiết-phủ là Doãn-cầu lên làm bực Tam-công.
Ba người nầy đều
là những kẻ dua nịnh tham quyền, cố-vị còn Trịnh-hữu-bá là người trung-trực vua
lại không tin dùng.
Một hôm,
thiết-triều tại Kỳ-sơn , có quan thủ-thần vào tâu :
– Tâu Bệ-hạ,
chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lúc.
Không một chút lo
lắng, U-vương mỉm cười nói :
– Núi lở đất động
là việc thường, nhà ngươi tâu với trẫm làm gì ?
Nói xong, liền
di-giá về cung
Quan Thái-sử
Báđương-phụ cầm tay quan Ðại-phu Triệu-thúc-Ðái than rằng :
– Thuở trước sông
Ỷ , sông Lạc cạn , nhà Hạ mất ; sông Hà cạn , nhà Thương hư ; nay cùng một lúc
ba sông đều động một lượt ấy là trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh khỏi
tai biến.
Triệu-thúc- đái
hỏi :
– Theo dự đoán
của ngài thì bao giờ mới xảy ra tai biến ấy?
Báđương-phụ đánh
tay xem lại, rồi đáp :
– Nếu vua biết
răn mình, chuộng hiền lánh dữ thì trong khoảng mười năm, bằng ngược lại họa sẽ
tới gấp không chừng.
Thúc- đái nghe
nói thở dài, cầm tay Dương-phụ, nói :
– Nay
Thánh-thượng chẳng kể việc quốc-chính , xa những tôi trung gần gũi nịnh thần ,
chẳng lẽ chúng ta khoanh tay ngồi ngó trong lúc nước nhà bại vong. Vậy chúng ta
phải can gián, dù được hay không cũng tròn bổn phận.
Báđương-phụ cũng
thở dài rồi lắc đầu nói :
– Dù chúng ta có
làm gì cũng vô ích .
Trong lúc hai
người nói chuyện có kẻ rình mò nghe được , thuật lại với Quách-công.
Quách-công sợ nếu
để Thúc- đái can gián ắt lòi chuyện gian-nịnh của mình, bèn thẳng vào hậu cung
tìm lời sàm tâu rằng :
– Báđương-phụ và
Triệu-thúc- đái chê bai triều- đình, làm cho dân chúng hoang-mang.
U Vương nói :
– Chúng là những
đứa ngu dốt biết chi mà bàn luận. Thói thường, những kẻ ngu dốt thường học đòi
hay xét-nét đến công việc của thiên-hạ , khanh để ý làm gì cho bận tâm.
Quách-công nghe
nói thì cúi đầu lui ra, mặt mày hớn hở.
Cách vài ngày
sau, quan trấn thủ núi Kỳ-sơn lại dâng biểu về tâu rằng :
– Ba sông đều
cạn, núi Kỳ-sơn lại lở, đè chết dân chúng rất nhiều.
U Vương không
thèm để ý đến, sai bọn nội giám đi tìm gái đẹp sung bổ vào cung.
Triệu-thúc- đái
nóng lòng, dâng biểu can rằng :
– Sơn băng, thủy
kiệt là biểu-hiệu của thiên tai. Vả lại Kỳ-sơn là nơi dựng nghiệp đế vương nay
lại bị lở đi thì không phải việc nhỏ . Lẽ ra phải chọn hiền tài, để chung lo
cứu nước thì Bệ-hạ lại chọn mỹ-nữ để vui riêng, hạ thần lấy làm hổ thẹn .
Nhà vua chưa kịp
nói, thì Quách-công đã quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, đất
Phong, đất Kiều là chỗ đóng đô còn Kỳ-sơn cũng như chiếc giày rách lâu đời đã
bỏ đi, thì việc núi long đất lở có can hệ gì. Ấy là Thúc- đái có ý khi-quân,
mượn cớ để phỉ-báng triều đình, xin Bệ-hạ rộng xét.
U-vương nói :
– Lời Quách-công
nói rất phải, Thúc- đái đã có ý khi-quân, trẫm không thể nào dung thứ.
Nói rồi vua bèn
cách chức Triệu-thúc- đái đuổi về quệ
Thúc- đái ngửa
mặt lên trời than :
– Nguy bang bất
nhập, loạn bang bất cứ . Tuy-nhiên, ta không khỏi đau lòng nhìn nhà Tây-châu
mất nước .
Than rồi bèn dắt
cả gia-quyến trở về nước Tấn.
Lúc ấy có quan Ðại-phu
Bao-hướng vừa ở Bao-trung về, nghe tin Thúc- đái bị đuổi, bèn vội vã vào triều
can gián rằng :
– Tâu Bệ-hạ, nước
nhà đang xảy ra nhiều điềm tai biến, Bệ-Hạ lại đuổi cả các tôi hiền, thì lấy ai
phò xã tắc.
Vua cả giận,
truyền bắt Bao-hướng hạ ngục.
Từ ấy không còn
ai dám ngăn cản nữa.
Ðây nhắc qua việc
người bán cung lúc trước, sau khi vớt được đứa bé, bèn trốn về Bao-thành
ẩn-náu. Nhưng vì nghèo khó nuôi đứa bé không nổi, mới đem cho một nhà giàu,
hiếm con, là Tư- đại đặt tên đứa bé là Bao-tự.
Nàng Bao-tự tuổi
vừa mười bốn mà cao lớn như một thiếu-nữ mười sáu, mười bảy sắc đẹp tuyệt trần,
mắt phượng, mày ngài,
đáng bậc
khuynh-thành, khuynh-quốc. Nhưng vì ở chốn thôn quê, dẫu sắc-nước hương-trời
cũng không ai biết tới.
Một hôm, Hồng-
đức là con của Bao-hướng, nhơn thâu thuế làng đi qua đấy, thấy Bao-tự đang gánh
nước.
Hồng- đức đứng
sững sờ, chắc lưỡi khen thầm :
– Làng quê mùa
như vầy, sao lại có người đẹp đến thế !
Bỗng chàng lại
sanh ra một ý nghĩ :
– Cha ta bị tù
nơi Kiểu-kinh đã ba năm, mà vua chưa thạ Nay, nếu được nàng nầy đem dâng cho
vua, ắt vua tha tội.
Bèn hỏi thăm tên
họ rồi trở về nhà thưa với mẹ :
– Phụ thân con vì
tánh ngay thẳng mà trái ý vua, chứ không làm gì nên tội. Nay vua đang tuyển gái
đẹp, mà con gái nhà Tư- đại lại đẹp vô ngần, nếu chúng ta mua được đem dâng cho
vua, chuộc tội cho phụ thân, ấy là kế của Táng-nghi-sanh cứu Văn-vương ngày xưa
đó.
Mẹ Hồng- đức nói
:
– Nếu kế ấy mà
thành-tựu, đem lại sự sum-họp gia- đình, thì mẹ đâu có tiếc gì vàng bạc .
Ðược lời Hồng-
đức cả mừng, đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tư- đại hỏi mua nàng Bao-tự.
Việc mua bán
không khó khăn lắm, vì Bao-tự là con nuôi, nhà Tư- đại đâu có mến tiếc làm chị
Hồng- đức đem về,
hương xông xạ ướp thay đổi xiêm-y, dạy cho biết những phép tắc cần thiết, rồi
dẫn đến Kiểu-kinh tìm cách lo lót với Quách-công nhờ bảo tấu.
Quách-công thấy
vàng bạc, lòng mừng rỡ vào triều tâu với U Vương rằng :
– Bao-hướng
ngỗ-nghịch oai trời, tội đáng muôn thác. Nay có con va là Hồng- đức, chẳng nài
khó khăn tìm kiếm khắp nơi mới được một mỹ nhân tên Bao-tự, đem đến dâng cho
Bệ-hạ để chuộc tội cha, xin Bệ-hạ nghĩ tấm lòng hiếu thảo mà lượng xét.
U Vương nghe tâu
cả mừng truyền dẫn Bao-Tự vào bệ-kiến .
Bao-Tự bước vào
quỳ lạy trước ngai.
U-vương xem thay
mặt rồng ngây ngất, nhìn mãi không thôi !
Qua một lúc, vua
mới sực tỉnh, nghĩ thầm :
– Ðã biết bao
nhiêu cung nữ tuyển lựa, nhưng chưa hề có người nào chim sa cá lặn như vầy.
Bèn hạ chỉ tha
Bao-hướng và cho phục-chức . Lại truyền dẫn Bao Tự vào một biệt cung, không cho
Thân-hậu haỵ
Ðêm ấy U-vương say
tình cá nước. Và, từ đó chẳng lúc nào rời Bao-tự. Khi xem trăng, khi sánh
nguyệt, khi đối ẩm, lúc ca xang , say sưa mãi nơi cung Quỳnh- đài, chẳng thiết
gì đến việc triều chính .
Có khi đến mười
ngày cũng không thấy vua lâm triều. Trăm quan đều thở than, lo lắng.
Có người đem
chuyện vua mê-say Bao-tự nói với Thân-hậu haỵ
Thân-hậu tức
giận, một hôm dẫn bọn cung-nga đến cung Quỳnh- đài xem hư thiệt .
Vừa đến nơi,
Thân-hậu thoáng thấy U-vương đang cùng với Bao-tự kề vai trửng-giỡn.
Thân-hậu bước vào
Bao-tự vẫn ngồi im, liếc mặt đưa tình nhìn vua chứ không đứng dậy chào đón.
Thân Hậu tức
không dằn được, chỉ vào mặt mắng :
– Loài tiện tỳ mi
ở đâu dám đến đây làm nhơ nhớp chốn cung vỉ
Vừa nói, vừa muốn
xốc tới.
U-vương sợ
Thân-hậu làm hỗn vội đứng dậy, cản lại, và nói :
– Ðây là mỹ-nhơn
của trẫm mới dùng, chưa định ngôi thứ nên chưa kịp đến ra mắt hậu, xin hậu chớ
chấp nhứt làm chị
Thân-hậu mắng
nhiếc một hồi rồi hậm-hực lui ra.
Bao-tự hỏi
U-vương :
– Tâu Bệ-hạ chẳng
hay người ấy là ai mà hungđữ lắm vậy ?
U Vương nói :
– Ấy là Hoàng-hậu
đó. Ngày mai khanh phải đến làm lễ ra mắt.
Bao-tự làm thinh,
rồi ngày mai cũng chẳng đi chào Hoàng-hậu.
Từ khi biết rõ sự
tình, Thân-hậu lòng buồn rười rượi ngày tối than thở mãi trong cung.
Thái-tử Nghi-cựu
thấy thế quỳ tâu :
– Tâu mẫu-hậu,
mẫu-hậu đã làm chúa tể nơi tam cung lục viện , oai quyền như thế, chẳng hay còn
điều chi bất bình mà buồn bã .
Thân-hậu đỡ con
dậy, hai hàng nước mắt ràng rụa, nói :
– Con ơi !
phụ-vương con đắm say con Bao-tự, không kể gì đến mẹ nữa. Thân mẹ dù có bị bạc
bẽo cũng chẳng sao, duy có giang san sự-nghiệp sau nầy ắt phải tan tành vì tay
con khốn nạn đó.
Thái-tử nghe nói
vừa buồn, vừa giận, cầm tay Thân-hậu nói :
– Xin mẹ chớ có
sầu bị Ngày mai là ngày Sóc (mồng một), phụ-vương con thế nào cũng lâm triều ,
chừng ấy mẹ sai bọn cung-nữ qua nơi Huỳnh- đài bẻ phá bông hoa , dụ Bao-tự ra
khỏi cung , con sẽ đánh cho một trận trả thù cho mẹ. Dẫu phụ-vương con có trách
mắng, con xin cam chịu.
Thân-hậu lắc đầu
nói :
– Con chớ nên
nóng nảy như thế, để thủng-thỉnh mà liệu, kẻo lâm vào độc-kế của con dâm-phụ
đó.
Thái-tử Nghi-cựu
hậm-hực ra về.
Sáng hôm sau, quả
nhiên U-vương lâm-triều.
Nghi-cựu bèn sai
một số cung-nhân qua nơi Quỳnh- đài, chẳng nói chi hết cứ việc vác cây đập phá
bông hoa.
Bọn thế nữ trong
đài trông thấy thất kinh chạy ra cản lại và la lớn rằng :
– Hoa nầy vốn của
Chúa-thượng trồng, để cho Bao-nương ngoạn cảnh chớ nên phá phách mà tội chẳng
nhỏ.
Bọn cung-nhân vẫn
không ngừng tay, ứng tiếng đáp :
– Bọn ta vâng
lịnh Ðông-cung Thái-tử đến bẻ hoa nầy về dâng cho Chánh-hậu, ai dám cản trở sao
!
Hai đàng cãi vả
om-sòm, làm cho Bao-tự đang mơ-màng giấc điệp, bỗng giật mình thức dậy, bước ra
xem thấy bông hoa tơi tả
Bao-tự cả giận,
toan bước tới đánh bọn cung-nữ, chẳng dè Thái-tử núp gần đấy, nhảy tới trợn mắt
hét :
– Nghiệt-phụ mi
là người chi, danh dự gì mà dám xưng là nương-nương, chẳng kiêng ai hết, nay ta
làm cho mi thấy cái nương-nương của mị
Nói dứt lời,
Thái-tử nắm đầu Bao-tự tát cho mấy cái.
Bao Tự đau quá ré
lên.
Bọn cung-nữ sợ
hãi, đồng quỳ móp xuống đất thưa :
– Xin Thái-tử hãy
khoanđung, kẻo phiền lòng Chúa-thượng
Thái-tử Nghi-cựu
chưa hả giận, nhưng sợ đánh sảy tay bèn buông Bao-tự ra , rồi chỉ vào mặt nói :
– Nếu mi còn
ngạo-nghể ta sẽ không bao giờ để cho mi sống yên.
Nói xong quay gót
trở về Ðông cung.
Bao-tự biết
Thái-tử đánh trả thù cho mẹ, nên phải dằn lòng nhẫn nhục trở vào, nằm vật trên
giường than khóc.
Bọn cung-nga thế
nữ đồng xúm lại khuyên giải :
– Bề nào cũng còn
có Chúa-thượng, nương-nương khóc lóc làm chị
Bao-tự nằm khóc
sụt sịt mãi cho đến lúc U-vương bãi triều bước về Quỳnh- đài, nàng mới khóc
rống lên .
U-vương vội vã
bước vào hỏi :
– Tại sao
ái-khanh dung mạo như thế nầy? Chẳng hay có điều gì xảy đến, hãy nói cho trẫm
rõ.
Bao-tự cứ khóc
mãi không nói. Ðợi cho U-vương năn nỉ đôi ba phen, nàng mới nghẹn ngào thốt ra
lời :
– Hôm nay Thái-tử
dẫn một tốp cung-nhân đến hái phá trông hoa dưới đài. Mặc dầu hành động ngang
tàng ấy, thiếp cũng chẳng làm nói Thái-tử lại xông vào đánh thiếp. Nếu chẳng có
cung-nga can giáng ắt mạng thiếp chẳng còn .
Nói xong lại khóc
rống lên nữa.
U-vương đã rõ
ngọn-ngành , vừa vỗ về Bao-tự, vừa nói :
– ái khanh ơi !
Chỉ vì ái-khanh không chịu ra mắt Chánh-hậu, nên Chánh-hậu giận, sai Thái-tử
làm như vậy chứ không phải tại Thái-tử đâu, ái-khanh chớ hiểu lầm mà trách nó .
Bao-tự làm ra mặt
giận nói :
– Thái-tử vì mẹ
mà báo thù, Thánh-thượng cũng vì Chánh-hậu mà che chở tội lỗi. Dầu thiếp có
chết đi cũng chẳng tiếc. Song, từ khi hầu-hạ Thánh-thượng đến nay, thiếp đã có
mang hai tháng. Vậy xin Thánh-thượng cho thiếp ra khỏi cung để bảo tồn giọt máu
của Thánh-thượng.
U-Vương mặt mày
buồn bã, đỡ Bao-tự dậy, nói :
– Thôi, ái-khanh
chớ buồn bã mà đau lòng Trẫm. Trẫm sẽ xét xử công-minh .
Rồi, nội trong
ngày hôm ấy, vua truyền chỉ rằng : Thái-tử Nghi-Cựu bạo động vô-lễ, chẳng biết
điều thảo thuận, nên phải đưa qua nước Thân cho Thân-hầu dạy dỗ, còn những quan
Thái-phó, Thiếu-phó nơi Ðông-cung, dạy dỗ chẳng nghiêm, nên thảy đều bị cách
chức.
Thái-tử Nghi-cựu
được lệnh vội vã vào cung kêu nài, nhưng U-vương đã biết trước, dặn quan giữ
cửa không cho vào.
Thái-tử chẳng
biết làm sao, đành lên đường qua nước Thân cư-trú.
Còn Thân-hậu,
luôn mấy hôm không thấy con vào thăm trong lòng lo lắng, sai bọn cung-nữ dò
hỏi, mới hay Thái-tử đã bị đầy sang nước Thân rồi một mình bơ vơ, ngày ngày nhớ
con gào thét thảm-thiết.
Lần hồi ngày
tháng thoi đưa, Bao-tự lâm-bồn sanh đặng một trai.
U-vương yêu-mến
vô-ngần, đặt tên là Bá-phục. Và, cũng từ ngày ấy, U-vương có ý phế con đích lập
con thứ, song chưa có cơ hội thuận-tiện
Quách-thạch-phù
(tức Quách-công) dò biết ý vua bèn thương-nghị với Doãn-cầu, rồi thông-tư với
Bao-tự rằng:
– Thái-tử hiện bị
đày ra khỏi nước, vậy phải lập tự cho Bá-phúc. Bên trong cậy có nương-nương,
bên ngoài chúng tôi giúp sức, lo chi việc ấy không thành .
Bao-tự bắt được
tin, lòng mừng khắp khởi, vội phúc đáp ngay :
– Ta cậy nhờ hai
khanh hết lòng bảo bọc , nếu Bá-phục đặng nối ngôi thì việc giàu sang trong
thiên-hạ, ta quyết không bao giờ phụ.
Từ đó, Bao-tự
thường lén sai người tâm-phúc, theo dỏi hành-vi của Thân-hậu , dầu việc nhỏ mọn
đến đâu cũng không qua mặt nổi.
Còn Thân-hậu sống
trong buồn thảm, giận vua nhớ con, cả ngày không ráo nước mắt.
Có một cung-nhân
già cả, thấy thế động lòng, kiếm lời bàn bạc :
– Tâu Hoàng-hậu,
nay tình mẹ con cách trở, cả hai đều mang nặng nhớ nhung, xin Hoàng-hậu lén
biên thư gởi sang nước Thân bảo Ðiện-hạ làm biểu gởi về thỉnh tội may ra
Chúa-thượng động tình mà cho phép hồi-hương , như thế mẹ con được sum-họp.
Thân-hậu sụt sùi
nói :
– Lời ngươi nói
rất phải, ngặt không có ai đem thư, biết liệu làm sao?
Người cung-nhân
nói :
– Mẹ tôi là
ôn-áo, biết nghề làm thuốc. Vậy Hoàng-hậu giả đau, đòi mẹ tôi vào coi mạch, rồi
khiến mẹ tôi đem thư về mà sai anh tôi đi thì khỏi lo chi hết .
Thân-hậu nghe
theo lời, viết một bức thự
Trong thư đại ý
như sau :
Thiên-tử vô đạo,
mê đắm con nghiệt-phụ, làm cho mẫu-tử phân-lỵ Nay con nghiệt-phụ lại sanh đặng
một đứa con, Chúa-thượng yêu mến lắm. Vậy con phải gởi biểu để thỉnh tội để
Chúa-thượng thương tình, tha con về trào. Chừng ấy mẹ con gặp nhau sẽ tính toán
kế khác .
Viết thư xong,
Thân-hậu giả bịnh sai người đòi ôn-áo vào cung xem mạch.
Tuy việc rất kín
đáo, song không thoát khỏi tầm mắt của bọn tay chân Bao-tự, chúng hay được,
chạy về báo.
Bao-tự nghĩ thầm
:
– Ðấy chắc là va
thông tin tức với Thái-tử. Vậy chờ lúc ôn-áo ra khỏi cung, bắt lại mà xét sẽ
biết ngay gian.
Thật vậy, khi
ôn-áo xem mạch cho Chánh-hậu xong, bái tạ ra về có ôm theo hai tấm lụa.
Vừa bước chân ra
khỏi cung, bị nội-giám đón lại hỏi :
– Lụa nầy ở đâu
mà có vậy?
ôn-áo đáp :
– Tôi vào coi
mạch cho Chánh-hậu, được Chánh-hậu tặng thưởng.
Nội-giám đưa mắt
nhìn nhau như hỏi ý, rồi một người bước đến giật tấm lựa mở banh ra khám xét.
Thấy trong tấrn lụa không có gì nội giám lại xúm nhau lục soát khắp mình. Bỗng
bắt gặp trong lai áo, có một phong thư , vội đem về Quỳnh- đài dâng cho Bao-tự.
Bao-tự xem thơ cả
giận , truyền bắt ôn-ao xiềng lại, và xé nát hai tấm lụa quăng xuống đất.
Kịp lúc U-vương
bước vào, thấy thế hỏi duyên cớ .
Bao-tự khóc và
tâu rằng :
– Tiện thiếp
hân-hạnh được vào chốn thâm cung, lại được Bệ-hạ rũ lòng thương, ơn ấy dẫu đến
chết cũng chưa đáp đền nổi.
Nay vì thiếp sanh
được một mụn con trai, làm cho Chánh-hậu đem lòng ghen ghét, viết thư cho
Thái-tử, lập mưu ám hại. Tấm thân thiếp thật khó mà toàn mạng.
Nói dứt lời lấy
phong thư dâng cho U-vương xem.
U-vương sửng sốt,
nhận biết nét chữ của Thân-hậu liền hỏi :
– Người nào đã
nhận đem bức thư này.
Bao-tự nói :
Người đó là
ôn-áo, hiện Nội-giám còn đang giữ lại.
Vua đòi dẫn ôn-áo
vào, rồi chăng hỏi qua một tiếng, rút gươm chém đứt làm hai đoạn.
Sau Nhiêm-ông có
thơ than rằng :
Lá thư chưa lọt
cửa song ngoài
Máu đã tuôn rồi !
thật đắng caỵ
ám đạm thâm cung,
tàn khí uất,
Bâng khuâng nữa
giấc mộng chương- đài.
Ðêm đến, Bao-tự
lại thỏ thẻ với U-vương rằng .
– Tánh mạng của
mẹ con thần thiếp hiện nằm trong tay Thái-tử, chưa biết sống chết lúc nào.
U-vương nói :
– Bề nào cũng còn
có trẫm đây, Thái-tử mà làm chi đặng sao.
Bao-tự vừa khóc
vừa nói :
Hiện nay được nhờ
Chúa thượng che chở, dầu ai có ghét cũng chẳng làm chi, song đến chừng
Chúa-thượng qua đời, Thái-tử lên nối ngôi , chừng ấy quyền-bính về tay
Chánh-hậu. Chánh-hậu muốn giết mẹ con thiếp lúc nào chẳng được.
Dứt lời, Bao-tự
lại khóc rống lên .
U-vương cầm tay
thổn-thức :
– Trẫm muốn phế
Chánh-hậu và Thái-tử đi, để lập khanh làm Chánh-hậu, và Bá-phục làm Ðông-cung,
song e quần-thần chẳng phục .
Bao-tự nói :
– Tôi nghe vua
thì thuận, mà vua nghe tôi là nghịch, xin Bệ-hạ hãy đem ý đó mà hiểu*** quần
thần, xem nghị-luận thế nào.
U-vương mỉm cười,
nói :
– ái khanh nói
rất phải, để mai trẫm sẽ tính.
Ðêm ấy Bao-tự sai
người tâm-phúc ra nói với Quách-thạch-phủ và Doãn-cầu hay, đặng dự bị trước mà
ứng đáp.
Ngày thứ, U-vương
lâm trào, các quan triều bái xong, vua truyền chỉ triệu hết công-khanh thượng-
điện, mà phán rằng :
– Nay Chánh-hậu
sanh lòng tật- đố, không kiêng-nễ phép vua , ngày đêm thốt những lời oán-cừu
trẫm. Tội ấy khó dung, chư khanh nghi thế nào
Quách-thạch-phủ
quỳ tâu :
– Hoàng-hậu là
một vị quốc mẫu, dẫu có tội chi cũng không nên tra hỏi. Nếu xét không đáng vị
Chánh-cung thì xin Bệ-hạ chọn người có đức-hạnh thay thế mà thôi.
Doãn-cầu cũng quỳ
xuống tâu theo :
– Tâu Bệ-hạ, kẻ
hạ-thần trộm nghe đức-hạnh của Vương-phi Bao-tự, thật đáng làm chúa trong cung
lắrn .
U Vương lại hỏi :
– Nay Thái-tử
đang ở nước Thân, như bỏ ngôi của Thân-hậu thì địa-vị của Thái-tử sẽ thế nào?
Quách-thạch-phù
tâu :
– Nếu đã bỏ mẹ
thì dùng con làm gì nữa. Xin Bệ-hạ hãy phế Nghi-cựu mà tôn Bá-phục lên
Ðông-cung.
U Vương mừng lắm,
lập tức hạ chiếu bắt Thân-hậu giam vào lãnh-cung, cắt ngôi Nghi-cựu, lập Bao-tự
lên làm Chánh-hậu, Bá-phục làm Ðông-cung Thái-tử .
Lại ra lệnh nếu
ai ngăn-cản sẽ bị khép vào tội phản-nghịch.
Quần-thần nhiều
người lấy làm bất bình, nhưng không dám nói, vì thấy ý vua đã quyết, can gián
không ích gì mà hại đến thân.
Báđương-phụ tức
tốc xin từ quan, về làng dưỡng lão, còn các vị trung thần khác, lần lượt bỏ
chức cũng nhiều.
Bao-tự tuy được
phong làm Hoàng-hậu nhưng chưa lấy thế làm vui. Cả ngày ít nói, không cười,
không ai hiểu nổi được lòng nàng cả. Có lẽ nàng đang ước-vọng những cái gì xa
xôi nữa chăng ?
U Vương thấy
Bao-tự không cười, lòng bâng khuâng lo lắng , bèn triệu tất cả nhạc-công trong
triều tập-họp đến để đờn ca hát xướng cho nàng vui, song vẫn không thấy nàng
cười lên một tiếng nào.
U Vương nghĩ thầm
:
– Ta phế lập
Chánh cung và Ðông-cung mục đích để làm vui lòng nàng, thế mà không được nàng
trao cho một nụ cười thật là đau đớn .
Nghĩ như vậy bèn
thỏ thẻ hỏi Bao-tự :
– Ðờn ca như thế
không làm cho ái-khanh vui sao?
Bao-tự đáp :
– Tâu Bệ-hạ, thần
thiếp nhớ lại tiếng xé lụa trước đây còn vui tai hơn là tiếng âm nhạc .
U-vương cả mừng
nói :
– ái-khanh ưa
nghe tiếng xé lụa, sao ái-khanh không nói cho sớm .
Nói rồi truyền
quan giữ kho mỗi ngày đem vào cung một trărn tấm lụa, lại khiến các cung-nữ
khỏe mạnh thay phiên nhau xé để làm vui Bao-tự.
Nhưng quái thay !
xé đến bao nhiêu lụa vẫn chưa thấy Bao-tự cười một tiếng nào.
U-vương lo lắng,
hỏi :
– Ðã ưa tiếng xé
lụa, và lụa cũng đã xé rặt nhiều, sao trẫm chưa thay ái-khanh vui.
Bao-tự mặt lầm-lì
không đáp.
U-vương se thắt
cõi lòng nói :
– Thế nào trẫm
cũng tìm cách làm cho ái-khanh cười lên một tiếng.
Bèn ra lệnh khắp
triều thần, ai có kế gì làm cho Bao-tự cười lên một tiếng sẽ được thưởng ngàn
vàng.
Quách-thạch-phủ
quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ, ngày
trước Tiên-vương có lập mười cái phong-hỏa- đài tại núi Ly-sơn, lại tạo mấy
chục cỗ trống rất lớn, để mỗi khi có giặc Tây-nhung đến xâm lấn thì nổi lửa
gióng trống lên. Các chư-hầu nghe thấy đem binh đến cứu. Từ ấy đến nay, trong
nước thái-bình, nên phong-hỏa- đài không dùng đến. Nếu Bệ-hạ muốn làm cho
Chánh-hậu vui cười, xin Bệ-hạ hãy cùng Chánh-hậu đến Ly-sơn du-ngoạn, rồi nữa
đêm đốt phong-hỏa- đài lên, đánh trống cho thật dữ , binh viện các chư hầu ắt
đem binh đến cứu. Chừng ấy, không thấy giặc giã gì cả, các chư-hầu phải lục-tục
kéo quân trở về, như thế làm sao Chánh-hậu khỏi tức cười.
U vương đắc-ý vỗ
tay cười lớn, nói :
– Kế ấy rất hay !
Bèn dắt Bao-tự
lên Ly-sơn bày tiệc ăn uống rồi truyền quân nổi lửa đốt phong-hỏa- đài.
Lúc ấy
Trịnh-bá-hữu đang làm chức Tư- đồ tại trào, nghe việc ấy thất kinh, vội vã chạy
đến Ly-sơn, quỳ móp xuống đất tâu rằng :
– Tâu Bệ-hạ,
phong-hỏa- đài Tiên-vương lập lên là để thông tin tức với chư hầu khi trong
nước có biến, nay vô cớ mà Bệ-hạ đốt lửa, gạt chư hầu để làm trò vui , về sau
thoảng có điều binh đao bất trắc , đốt phong-hỏa- đài lên thì ai còn tin mà đến
cứu viện , xin Bệ-hạ chớ nên làm việc đó.
U Vương nổi giận
mắng :
– Nay thiên-hạ
đang vui hưởng thái bình thì cần gì quân cứu viện . Trẫm và Vương-hậu ra đây du
ngoạn, không có gì tiêu-khiển nên mượn kế làm vui. Nếu sau nầy có giặc lại can
hệ gì đến ngươi sao mà ngươi lo lắng .
Trịnh-bá-hữu nghe
nói thở dài, lủi thủi bước ra.
U-vương truyền
quân đốt lửa, và gióng trống lên. ánh lửa rực trời, tiếng trống vang như sấm.
Các chư hầu ngỡ
là Kiểu-kinh có giặc, vội vàng kiểm-binh, điểm tướng suốt đêm kéo đến Ly-sơn.
Ðến nơi thì nghe trên lầu đờn ca, hát xướng, lại thấy U-vương cùng Bao-Tự đang
uống rượu vui vầy.
Thấy quân-sĩ các
chư-hầu rầm rộ kéo đến U-vương mỉm cười ra đứng trước hiên lầu, nói lớn rằng :
– Trẫm may mắn
không có giặc giã chi, chẳng dám phiền đến các chư-hầu.
Các chư-hầu đều
ngơ ngác nhìn nhau rồi bẽn lẽn cuốn cờ, dẹp trống, ai về nước nầy.
Bao-tự đứng trên
lầu trông xuống thấy quân lính khắp nơi ồ-ạt kéo đến, rồi lại lặng lẽ ra về
thích chí vổ tay cười dài.
U-vương ôm Bao-tự
vào lòng nói :
– ái khanh ơi !
một tiếng cười của ái-khanh chẳng những làm vui lòng ta, mà còn tô thắm vạn màu
tươi trong vũ-trụ , ấy cũng nhờ công của Quách-thạch-phủ đó.
Nói xong, truyền
quan giữ kho lấy ngàn vàng đem thưởng cho Quách-thạch-phủ.
Người sau có bài
thơ vịnh việc đốt lửa ấy như sau :
Buồn lòng tiêu
khiển một trò chơi,
Ðốt lửa đêm thanh
đỏ rực trời.
Cờ trống chư hầu
bôn bả tới
Giúp vui chỉ một
nụ cười tươi.
Ðây nói về
Thân-hầu, khi nghe U-vương phế Thân-hậu, lập Bao-Tự, lòng buồn bã, lập sớ gợi
đến can rằng :
– Xưa vua Kiệt mê
Mụi-Hỷ mà nhà Hạ hư, vua Trụ mê Ðắc-kỷ mà nhà Thương mất. Nay Bệ-hạ đắm say
Bao-tự , phế bỏ dòng chánh lập ra dòng thứ là trái nghĩa phu thê, hại tình phụ
tử . Xin Bệ-hạ lấy cái gương nhà Hạ , nhà Thương mà tránh cho nhà Châu khỏi
điều tai biến.
U Vương xem sớ cả
giận, vỗ án hét :
– Quân phản-tặc,
sao dám loạn-ngôn như thế !
Quách-thạch-phủ
quỳ tâu :
– Tâu Bệ-hạ,
Thân-hầu trước đây thấy Bê-hạ đuổi Thái-tử đem lòng oán-hận , nay lại nghe
Chánh-hậu bị truất ngôi, ý muốn mưu phản, nên mới dám dâng biểu hài tội Bệ-hạ
như vậy.
U Vương hỏi :
– Như thế thì nay
trẫm phải đối-xử làm sao?
Quách-thạch-phủ
tâu :
– Thân-hầu vốn
chẳng có công cán chi, nhờ Thân hậu mà được phong đến tước hầu. Nay Thân-hậu và
Thái-tử đã bị truất-phế, thì cũng nên truất Thân-hầu xuống tước Bá như cũ, rồi
dám binh đến vấn-tội để trừ hậu-hoạn.
U Vương y tấu, hạ chỉ cách chức Thân-hầu lại khiến Quách-thạch-phủ kiểm- điểm binh mã, kéo đến nước Thân vấn tội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét